Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành
Thăng Long - Hà Nội bắt đầu từ thời kỳ từ tiền Thăng Long (An Nam đô hộ
phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh - Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý,
Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc
đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở
thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.
Vào lúc 20 giờ 30 ngày 31/7/2010 theo giờ địa phương tại Brasil, tức 6 giờ 30 ngày 1/8/2010 theo giờ Việt Nam, Ủy ban di sản thế giới đã thông qua nghị quyết công nhận khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa thế giới. Những giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản này được ghi nhận bởi 3 đặc điểm nổi bật: Chiều dài lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ; Tính liên tục của di sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú.[1]
Theo tiêu chí (II): Những di tích trên mặt đất và khai quật được trong lòng đất tại Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là minh chứng đặc sắc về quá trình giao lưu văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại, đặc biệt Phật giáo, Nho giáo, thuyết phong thủy, mô hình vương thành phương Đông, mô hình kiến trúc quân sự phương Tây (thành Vauban), đến từ Trung Hoa, Champa, Pháp, để tạo dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một quốc gia vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả giao thoa, tiếp biến văn hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh quan, qui hoạch các khu cung điện, trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với diễn biến văn hóa đa dạng qua các thời kỳ lịch sử.
Theo tiêu chí (III): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là minh chứng duy nhất về truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng trong suốt lịch sử liên tục 13 thế kỷ (trải từ thời tiền Thăng Long, qua thời Đinh- Tiền Lê, đến thời kỳ Thăng Long-Hà Nội với các vương triều Lý-Trần-Lê-Nguyễn) và vẫn được tiếp nối cho đến ngay nay. Những tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến trúc và nghệ thuật của di sản phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp nhau liên tục của các vương triều cai trị đất nước Việt Nam trên các mặt tư tưởng, chính trị, hành chính, luật pháp, kinh tế và văn hoá trong gần một ngàn năm. Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục dài lâu như vậy của sự phát triển chính trị, văn hoá như tại khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.
Theo tiêu chí (VI): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội minh chứng rõ nét về một di sản có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử của một quốc gia dân tộc vùng Đông Nam Á trong mối quan hệ khu vực và thế giới. Di sản đề cử là bằng chứng thuyết phục về sức sống và khả năng phục hưng của một quốc gia sau hơn mười thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Di sản đề cử còn ghi đậm dấu ấn thắng lợi của một nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, có ảnh hưởng rộng lớn trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới
Giai đoạn tiền Thăng Long
Giai đoạn Lý - Trần từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV
Năm 1029, Lý Thái Tông xây dựng lại toàn bộ khu cấm thành sau khi nơi đây bị tàn phá bởi vụ Loạn tam vương. Trên nền cũ điện Càn Nguyên, Lý Thái Tông cho dựng điện Thiên An làm nơi thiết triều. Hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và điện Thiên Phúc. Phía trước điện Diên An là sân Rồng có đặt một quả chuông lớn. Hai bên tả hữu sân rồng có đặt gác chuông. Phía đông, tây sân Rồng là điện Văn Minh và điện Quảng Vũ, phía trước sân rồng là là điện Phụng Tiên, trên Điện có lầu Chính Dương là nơi báo canh báo khắc. Sau điện Diên An là điện Thiên Khánh hình Bát Giác. Sau điện Thiên Khánh là điện Trường Xuân. Trên điện Trường Xuân có gác Đồ Long. Từ điện Thiên Khánh nối với điện Thiên An ở phía sau đều có bắc cầu gọi là cầu Phượng Hoàng.
Ngoài ra các cung điện khác cũng được xây dựng liên tục, không đòi nào không có không mấy năm không có. Mỗi cung điện thường đều có tường bao xung quanh và làm cửa thông với cung điện khác. Ngoài cung điện, các vị vua nhà Lý còn cho xây dựng nhiều công trình văn hóa tín ngưỡng khác để phục vụ cho vua và hoàng tộc như: đền Quán Thánh, chùa Chân Giáo (nơi vua Lý Huệ Tông đã tu hành), đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói bạc, hồ ao làm cảnh cũng được lập khá nhiều trong Hoàng thành. Năm 1049, đào hồ Kim Minh Vạn Tuế, đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và xây cầu Vũ Phượng đi vào, 10 năm sau lại xây thêm điện Hồ Thiên bát giác ở đấy. Năm 1051 đào hồ Thụy Thanh, hồ Ứng Minh. Năm 1098, đào hồ Phượng Liên và xây tại đây điện Sùng Uyên, bên trái lập điện Huy Dương, đình Lai Phượng bên phải dựng điện Ánh Thiềm, đình Át Vân, phía trước xây lầu Trường Minh, phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa.
Năm 1805, Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng Thành cũ vì cho rằng đây chỉ còn là Trấn Bắc thành mà Hoàng Thành Thăng Long thì rộng lớn quá. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vauban của Pháp. Về quy mô thì nhỏ hơn thành cũ nhiều.
Theo Vi.wikipedia.org
Vào lúc 20 giờ 30 ngày 31/7/2010 theo giờ địa phương tại Brasil, tức 6 giờ 30 ngày 1/8/2010 theo giờ Việt Nam, Ủy ban di sản thế giới đã thông qua nghị quyết công nhận khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa thế giới. Những giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản này được ghi nhận bởi 3 đặc điểm nổi bật: Chiều dài lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ; Tính liên tục của di sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú.[1]
Theo tiêu chí (II): Những di tích trên mặt đất và khai quật được trong lòng đất tại Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là minh chứng đặc sắc về quá trình giao lưu văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại, đặc biệt Phật giáo, Nho giáo, thuyết phong thủy, mô hình vương thành phương Đông, mô hình kiến trúc quân sự phương Tây (thành Vauban), đến từ Trung Hoa, Champa, Pháp, để tạo dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một quốc gia vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả giao thoa, tiếp biến văn hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh quan, qui hoạch các khu cung điện, trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với diễn biến văn hóa đa dạng qua các thời kỳ lịch sử.
Theo tiêu chí (III): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là minh chứng duy nhất về truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng trong suốt lịch sử liên tục 13 thế kỷ (trải từ thời tiền Thăng Long, qua thời Đinh- Tiền Lê, đến thời kỳ Thăng Long-Hà Nội với các vương triều Lý-Trần-Lê-Nguyễn) và vẫn được tiếp nối cho đến ngay nay. Những tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến trúc và nghệ thuật của di sản phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp nhau liên tục của các vương triều cai trị đất nước Việt Nam trên các mặt tư tưởng, chính trị, hành chính, luật pháp, kinh tế và văn hoá trong gần một ngàn năm. Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục dài lâu như vậy của sự phát triển chính trị, văn hoá như tại khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.
Theo tiêu chí (VI): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội minh chứng rõ nét về một di sản có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử của một quốc gia dân tộc vùng Đông Nam Á trong mối quan hệ khu vực và thế giới. Di sản đề cử là bằng chứng thuyết phục về sức sống và khả năng phục hưng của một quốc gia sau hơn mười thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Di sản đề cử còn ghi đậm dấu ấn thắng lợi của một nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, có ảnh hưởng rộng lớn trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới
Giai đoạn tiền Thăng Long
Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50
huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ, lần đầu tiên vùng
đất sau là là kinh thành Thăng Long nắm giữ vai trò một trung tâm quyền
lực chính trị. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành
trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải
quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện
lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất
Long Đỗ.
Cuối thế kỷ 9, chính quyền trung ương nhà Đường suy yếu
nghiêm trọng. Đầu thế kỷ 10, các thế lực cát cứ nổi lên đánh giết lẫn
nhau, tạo ra thế loạn chia cắt Ngũ Đại Thập Quốc. Khúc Thừa Dụ, khi đó
là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã tiến ra chiếm đóng phủ
thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Sau khi đã nắm được quyền lực thực
tế trên đất Tĩnh Hải quân, ông đã cho xây dựng chính quyền dựa trên
danh xưng của chính quyền đô hộ nhà Đường, nhưng thực chất là một chính
quyền độc lập và do người Việt quản lý.
Năm 931, Dương Đình Nghệ đem quân từ Ái châu ra Đại La
đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nước Nam Hán. Lý Tiến bỏ chạy, Dương Đình
Nghệ giải phóng thành Đại La giành quyền tự chủ cho đất nước Việt được 6
năm thì bị Kiều Công Tiễn giết hại. Năm 938, Ngô Quyền hạ thành Đại La,
tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Sau đó, ông chỉ huy trận Bạch Đằng, đánh bại
quân Nam Hán, giết chết Hoằng Thao. Mùa xuân năm 939, ông xưng là Ngô
Vương, không đóng đô ở Đại La mà về Cổ Loa. Sau loạn 12 sứ quân, các
triều đại Đinh, Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư. Đại La lúc này do Đô hộ phủ sĩ
sư Lưu Cơ cai quản, vì thế mà vị quan này được coi là người 'giao chìa
khóa' thành Đại La cho Lý Thái Tổ.[2]
Giai đoạn Lý - Trần từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV
Năm 1010, tại kinh đô Hoa Lư, vua Lý Thái Tổ ban chiếu
dời đô để chuyển kinh đô về thành Đại La và đổi tên kinh thành này là
Thăng Long. Lý Thái Tổ cùng các quần thần đã gấp rút xây dựng những công
trình cơ bản của Kinh thành Thăng Long. Đến đầu năm 1011 thì hoàn
thành. Khi mới xây dựng, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô
hình Tam trùng thành quách gồm: vòng ngoài cùng gọi là La thành hay kinh
thành, vòng thành thứ hai là Hoàng Thành, giữa hai lớp thành này là nơi
sinh sống của cư dân, lớp thành còn lại là Tử cấm thành hay Cấm thành
hay Long Phượng thành là nơi ở của nhà vua. Các thời sau đều theo cách
ấy mà phân chia.
Ngay từ năm 1010, khi mới định đô Thăng Long, Lý Thái Tổ
đã khởi công xây dựng Hoàng Thành và hàng loạt cung điện ở trong Hoàng
Thành. Hoàng thành đắp bằng đất, phía ngoài có hào, mở 4 cửa: Tường Phù ở
phía đông, Quảng Phúc ở phía tây, Đại Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía
bắc. Tuy còn những ý kiến khác nhau, nhưng căn cứ vào sử liệu và di tích
còn lại, có thể xác định cửa Tường Phù mở ra phía Chợ Đông và khu phố
buôn bán tấp nập của phường Giang Khẩu và đền Bạch Mã. Cửa Quảng Phúc mở
ra phía chùa Một Cột và chợ Tây Nhai (chợ Ngọc Hà). Cửa Đại Hưng ở
khoảng gần Cửa Nam hiện nay. Cửa Diệu Đức nhìn ra trước sông Tô Lịch,
khoảng đường Phan Đình Phùng hiện nay. Những cung điện chính còn thấy
trong sử sách như: điện Càn Nguyên là nơi thiết triều đặt trên núi Nùng
tức núi Long Đỗ, hai bên tả hữu là điện Tập Hiền và điện Giảng Võ. Bên
trái mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân, bên phải mở cửa Đan
Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính Bắc dựng điện Cao Minh. Thềm các
quan chầu vua gọi là Long Trì có hành lang chạy xung quanh. Đằng sau
điện Càn Nguyên là điện Long An và điện Long Thụy làm nơi nhà vua nghỉ
ngơi. Bên trái xây điện Nhật Quang, bên phải xây điện Nguyệt Minh, đằng
sau là cung Thúy Hoa là nơi ở của các phi tần.
Năm 1029, Lý Thái Tông xây dựng lại toàn bộ khu cấm thành sau khi nơi đây bị tàn phá bởi vụ Loạn tam vương. Trên nền cũ điện Càn Nguyên, Lý Thái Tông cho dựng điện Thiên An làm nơi thiết triều. Hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và điện Thiên Phúc. Phía trước điện Diên An là sân Rồng có đặt một quả chuông lớn. Hai bên tả hữu sân rồng có đặt gác chuông. Phía đông, tây sân Rồng là điện Văn Minh và điện Quảng Vũ, phía trước sân rồng là là điện Phụng Tiên, trên Điện có lầu Chính Dương là nơi báo canh báo khắc. Sau điện Diên An là điện Thiên Khánh hình Bát Giác. Sau điện Thiên Khánh là điện Trường Xuân. Trên điện Trường Xuân có gác Đồ Long. Từ điện Thiên Khánh nối với điện Thiên An ở phía sau đều có bắc cầu gọi là cầu Phượng Hoàng.
Năm 1203, vua Lý Cao Tông bắt đầu một đợt xây dựng mới.
Cung điện mới được xây ở phía tây tẩm điện. Bên trái dựng điện Dương
Minh, bên phải dựng điện Chính Nghi, ở trên xây điện Kính Thiên, thềm
gọi là Lệ Giao. ở giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt Thành,
thềm gọi là Ngân Hồng. Đằng sau xây điện Thắng Thọ. Bên trái xây gác
Nhật Kim, bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh dựng hành lang thềm
gọi là Kim Tinh. Bên trái gác Nguyệt Bảo là tòa Lương Thạch, phía tây
xây gác Dục Đường (nhà tắm). Phía sau xây gác Phú Quốc, thềm gọi là
Phượng Tiêu. Phía sau dựng cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư trên ao xây đình
Ngoạn Y. Ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ nước thông với sông. [3]
Bản đồ Hà Nội năm 1873 với khu vực thành cổ ở sát Hồ Tây
Bản đồ Hà Nội năm 1873 với khu vực thành cổ ở sát Hồ Tây
Ngoài ra các cung điện khác cũng được xây dựng liên tục, không đòi nào không có không mấy năm không có. Mỗi cung điện thường đều có tường bao xung quanh và làm cửa thông với cung điện khác. Ngoài cung điện, các vị vua nhà Lý còn cho xây dựng nhiều công trình văn hóa tín ngưỡng khác để phục vụ cho vua và hoàng tộc như: đền Quán Thánh, chùa Chân Giáo (nơi vua Lý Huệ Tông đã tu hành), đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói bạc, hồ ao làm cảnh cũng được lập khá nhiều trong Hoàng thành. Năm 1049, đào hồ Kim Minh Vạn Tuế, đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và xây cầu Vũ Phượng đi vào, 10 năm sau lại xây thêm điện Hồ Thiên bát giác ở đấy. Năm 1051 đào hồ Thụy Thanh, hồ Ứng Minh. Năm 1098, đào hồ Phượng Liên và xây tại đây điện Sùng Uyên, bên trái lập điện Huy Dương, đình Lai Phượng bên phải dựng điện Ánh Thiềm, đình Át Vân, phía trước xây lầu Trường Minh, phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa.
Nhiều vườn ngự cũng được dựng nên trong Hoàng thành. Mùa
thu năm 1048, mở luôn 3 vườn ngự: vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh và
vườn Xuân Quang. Năm 1065, mở thêm vườn Thượng Lâm. Giữa thế Kỷ 14 lại
dựng một vườn ngự nữa nối liền với hậu cung. Theo sử cũ còn ghi giữa
vườn có đào một cái hồ lớn: 'Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng
thông, trúc và nhiều thứ kỳ hoa diệu thảo khác thêm vào đấy là chim quý
thú lạ. Bốn mặt khai cho sông nước thông vào, gọi hồ ấy là Lạc Thanh
Trì. Về phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng một tòa điện gọi là điện Lạc
Thanh. Lại đào các hồ nhỏ khác, bắt người ở Hải Đông chở nước mặn chứa
vào hồ ấy, để nuôi các loài hải sản như đồi mồi cá biển và các loại ba
ba. Rồi bắt người Hóa Châu bắt cá sấu thả vào đấy. Lại có hồ Thanh Ngư
dể nuôi cá Thanh Phụ (cá diếc đuôi đỏ vảy biếc)... Lại làm dãy hành lang
ở tây điện thẳng đến cửa Hoàng Phúc, dựng dãy Trường Lang từ gác Nguyên
Huyền đến cửa Đại Triều phía tây.
[sửa] Giai đoạn Lê - Mạc từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
[sửa] Giai đoạn Lê - Mạc từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
Sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Lợi vẫn đóng đô ở
Thăng Long nhưng đổi tên là Đông Đô rồi Đông Kinh. Về cơ bản Đông Đô
thời Lê không khác nhiều Thăng Long đời Lý Trần Hồ chỉ có điều cung điện
đền đài đã bị phá phách hết cả nhà Lê mới dần dần sửa chữa xây dựng
thêm.
Từ năm 1490 cho đến thế kỷ 16 kinh thành mới có nhiều
thay đổi. Trong thời gian này tường hoàng thành cũng như Đại La thành
luôn được xây đắp mở rộng thêm ra. Năm 1490, để đề phòng những nạn loạn
đảng như Nghi Dân đang đêm trèo tường vào giết Lê Nhân Tôn ở trong cung,
Lê Thánh Tôn cho xây lại Hoàng Thành mở rộng thêm 8 dặm nữa. Công việc
xây dựng trong 8 tháng mới xong. Trong Hoàng Thành Lê Thánh Tôn cũng cho
xây thêm cung điện và lập vườn Thượng lâm để nuôi bách thú. Năm 1512,
Lê Tương Dực giao Vũ Như Tô đứng ra trông nom việc dựng hơn 100 nóc cung
điện nguy nga, lại khởi công làm Cửu Trùng Đài mà như sử cũ miêu tả là
tuy chưa hoàn thành mà bóng rợp nửa hồ Tây. Năm 1514, Lê Tương Dực mở
rộng Hoàng Thành thêm mấy nghìn trượng (mỗi trượng là 3m60)bao bọc cả
điện Tường Quang, Quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa.
Từ năm 1516 đén năm 1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê
kinh thành Thăng Long chìm trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện kho
tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần. Trong
nửa cuối thế kỷ 16, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một
bên là Lê-Trịnh diễn ra quyết liệt với ưu thế ngày càng thuộc về phe
Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía bắc như Ninh
Bình, Hà Nam, Bắc Ninh... và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời
bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này nơi khác. Thăng Long ngày một điêu
tàn. Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy,
Mạc Mậu Hợp quyết định trở lại Thăng Long. Một đợt xây dựng đại quy mô
được khởi động. Từ đó về sau cũng không có lần nào Hoàng Thành được xây
dựng quy mô như thế nữa. [4]
Năm 1599 Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến
về tiếp quản Thăng Long. Hoàng Thành được tu sửa trong một tháng để đón
vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi những cung điện mới xây ở đều nằm trong phủ
Chúa. Hoàng Thành bị bỏ hoang phế nhiều.
[sửa] Giai đoạn từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh Hà Nội
[sửa] Giai đoạn từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh Hà Nội
Năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị
đem đại quân 29 vạn người sang chiếm Thăng Long không tốn một hòn tên
mũi đạn. Dựa thế quân Thanh Lê Chiêu Thống điên cuồng trả thù họ Trịnh.
Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống đốt trụi cháy ròng rã một tuần mới hết. Tất
cả những gì liên quan đến chúa Trịnh ở Thăng Long bị phá sạch. Kinh
thành lại một lần nữa ra tro. Đầu năm 1789, Quang Trung Nguyễn Huệ ra
Bắc lần thứ ba đánh tan quân Thanh, Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc,
triều Hậu Lê kết thúc, Quang Trung định đô ở Phú Xuân. Thăng Long chỉ
còn là Bắc thành. Năm 1802 sau khi tiêu diệt xong Tây Sơn, Nguyễn Ánh
lên ngôi Hoàng Đế. Kinh đô vẫn được đặt ở Phú Xuân. Thăng Long vẫn mang
tên gọi là Thăng Long nhưng chữ 'Long' là rồng bị chuyển thành chữ
'Long' nghĩa là thịnh vượng ý rằng nhà vua không còn ở đấy. Đồng thời
những gì còn sót lại của Hoàng Thành sau những trận đại hủy diệt cuối
thế kỉ 18 cũng lần lượt bị các đời vua nhà Nguyễn chuyển nốt vào Phú
Xuân phục vụ cho công cuộc xây dưng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính
Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi
Ngự giá Bắc thành. [5]
Năm 1805, Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng Thành cũ vì cho rằng đây chỉ còn là Trấn Bắc thành mà Hoàng Thành Thăng Long thì rộng lớn quá. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vauban của Pháp. Về quy mô thì nhỏ hơn thành cũ nhiều.
Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng
đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Cái tên này tồn tại cho đến
năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp. Người
Pháp đổi Hà Nội thành thành phố. Đến khi chiếm xong toàn Đông Dương họ
lại chọn đây là thủ đô của Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành Hà Nội
bị phá đi hoàn toàn để lấy đất làm công sở và trại lính cho người Pháp.
Ngoại trừ cửa Bắc và cột cờ những gì còn sót lại của thành Hà Nội đến
hôm nay chỉ là di chỉ khảo cổ và phục dựng.
[sửa] Giai đoạn tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn
[sửa] Giai đoạn tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn
Thành Hà Nội do Gia Long xây dựng cũng làm theo thể thức
các tỉnh thành khác và điều chủ yếu là không được to rộng hơn Phú Xuân.
Thành vuông xây theo kiểu Vauban của Pháp. Thành hình vuông mỗi bề
chừng một cây số xung quanh là hào nước sâu. Bốn bức tường thành tương
ứng với bốn con phố hiện nay là: phố Phan Đình Phùng ở phía Bắc, phố Lý
Nam Đế ở phía Đông, phố Trần Phú ở phía Nam, đường Hùng Vương ở phía
Tây.
Tường thành xây bằng gạch hộp chân thành xây băng đá
xanh và đá ong. Tường cao 1trượng 1thước, dày 4 trượng. Thành mở ra 5
cửa là: cửa Đông (tương ứng với phố cửa Đông bây giờ), cửa Tây (tương
ứng với phố Bắc Sơn hiện nay), cửa Bắc (nay vẫn còn), cửa Tây Nam (tương
ứng với chợ Cửa Nam hiện nay), cửa Đông Nam (tương ứng với đoạn giao
phố Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học bây giờ). Đường vào cửa xây vòm
xuyên qua tường thành dài 23 m. Trên mỗi cửa có lầu canh gọi là thú lâu.
Xung quanh tường thành là một dải đất rộng 6-7m rồi đến
một con hào rộng 15-16 m, sâu 5 m thông với sông Tô Lịch và sông Hồng.
Hào lúc nào cũng có nước nhưng thường chỉ cao khoảng 1 m. [6]
Phía ngoài các cổng thành có xây một hàng tường đắp liền
trên bờ hào gọi là Dương mã thành, dài 2trượng 9 thước, cao 7 thước 5
tấc. Các Dương mã thành đều cố một cửa bên gọi là Nhân Môn. Từ ngoài
thành đi vào đều phải đi qua Nhân Môn rồi mới đến cổng thành. Phía trong
thành được bố trí như sau:
Ở trung tâm thành là điện Kính Thiên được xây dựng từ
thời Lê trên núi Nùng. Điện dựng trên những cột gỗ lim lớn người ôm
không xuể. Thềm điện có hai đôi rồng đá rất đẹp cũng từ thời Lê. Sau
điện này bị người Pháp phá hủy và xây trên nền cũ tòa nhà Con Rồng để
làm trụ sở pháo binh Pháp. Sau năm 1954 nhà con Rồng lại trở thành trụ
sở của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đây cũng chính là
nơi diễn ra cuộc họp Bộ chính trị mở rộng ngày 21 tháng 3 năm 1975 hạ
quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 75-76.
Phía đông thành là nhiệm sở của Tổng trấn Bắc thành
Phía tây là kho thóc, kho tiền, và dinh bố chính là viên quan phụ trách những kho ấy.
Năm 1812 dựng Cột cờ Hà Nội ở phía nam thành
Năm 1835, vì cho răng thành Hà Nội cao hơn kinh thành
Huế, Minh Mạng cho xén bớt 1 thước 8 tấc, thành Hà Nội chỉ còn cao chừng
5 m
Năm 1848, vua Tự Đức cho tháo dỡ hết những cung điện còn lại ở Hà Nội chuyển vào Huế
Theo Vi.wikipedia.org
Show Disqus Comment Hide Disqus Comment